Bài giảng Ngữ văn 9 - Ý thức nữ quyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
I. Nội dung
1. Ngợi ca, khẳng định giá trị của người phụ nữ.
Một trong những thành công của tác phẩm Truyện Kiều chính là việc xây dựng nên bức tranh chân dung hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân vô cùng hoàn mỹ mười phân vẹn mười. Trong đó nhân vật Thúy Kiều là một trang quốc sắc thiên hương đẹp nghiêng nước nghiêng thành làm say đắm lòng người.
- Nguyễn Du đã sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng cùng với nghệ thuật miêu tả, ẩn dụ để làm toát lên vẻ đẹp mặn mà của Thúy Vân.
- Cô là người mang một nét đẹp tròn đầy, khuôn mặt tựa trăng rằm, lông mày thì cong cong, miệng cười tựa như hoa nở tươi thắm, giọng nói nhẹ nhàng thanh thoát như ngọc.
- Thúy Kiều lại còn tài sắc vẹn toàn hơn bấy nhiêu.
- Một vẻ đẹp mà mọi ngôn ngữ không thể nào tả hết được buộc lòng tác giả Nguyễn Du phải dùng tới nghệ thuật đòn bẩy, miêu tả chi tiết sắc đẹp của Thúy Vân để làm nổi bật sáng tỏ vẻ đẹp của Thúy Kiều.
2. Giải phóng phụ nữ
File đính kèm:
bai_giang_ngu_van_9_y_thuc_nu_quyen_trong_truyen_kieu_cua_ng.pptx
Nội dung text: Bài giảng Ngữ văn 9 - Ý thức nữ quyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
- Nghệ thuật - Tác phẩm hội tụ nhiều thành tựu của văn học dân tộc, đặc biệt là về ngôn ngữ và thể loại. - Với những thành công đó, Truyện Kiều được đánh giá là “tập đại thành”, kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam.
- - Nguyễn Du đã sử dụng thủ pháp ước lệ tượng “Vân xem trang trọng khác vời, trưng cùng với nghệ thuật Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở miêu tả, ẩn dụ để làm toát nang. lên vẻ đẹp mặn mà của Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Thúy Vân. Mây thua nước tóc tuyết nhường - Cô là người mang một nét màu da.” đẹp tròn đầy, khuôn mặt tựa trăng rằm, lông mày thì cong cong, miệng cười tựa như hoa nở tươi thắm, giọng nói nhẹ nhàng thanh thoát như ngọc.
- “Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”
- - Nguyễn Du muốn dự báo trước số phận hẩm hiu nhiều lênh đênh sóng gió của nhân vật Thúy Kiều. - Một con người càng tài sắc càng thông minh sắc sảo thì lại gặp lắm trái ngang éo le trong cuộc sống. - Cô sẽ là người phải gánh vác nhiều trách nhiệm nặng nề trong cuộc sống sau này.
- - Nguyễn Du để nàng Kiều chủ động “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình” - Trong cái nhìn tiến bộ về phụ nữ của thời hiện đại sự “nổi loạn” này của nàng Kiều cho thấy rõ đây là một cô gái rất bản lĩnh, dám vượt mọi rào cản để sống thật với lòng mình, để mình được là chính mình. - Và từ đó, có thể khẳng định Kiều đồng thời cũng là một phụ nữ có ý thức rất rõ giá trị của bản thân mình – đó là giá trị về nhân vị.
- - Chính vì được giáo dục trong gia đình có truyền thống văn hóa nên tâm hồn bẩm sinh vốn đã phong phú của nàng Kiều lại càng trở nên nhạy cảm, tinh tế. - Kiều yêu cái Đẹp và luôn hướng về cái Đẹp – đó là điều có thể xác tín ở tài hoa cầm, kỳ, thi, họa của nàng.
- - Trong câu chuyện tình yêu với Kim Trọng, Kiều là người luôn luôn chủ động. “ Văn chương nết đất, thông minh tính giời Phong tư tài mạo tót vời Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”. - Rồi giây phút mê đắm giữa hai người “Tình trong như đã mặt ngoài còn e” - Khi bóng tà đổ xuống giục giã phải chia tay, chàng Kim lên ngựa rồi nàng Kiều “còn ghé theo”, nhìn hút bóng chàng =>Đó là sự chủ động xuất phát từ tấm lòng chân thành, từ tình cảm hồn nhiên và vô cùng trong sáng của một cô gái đối với một chàng trai khi họ ở độ tuổi thanh xuân đẹp nhất
- => Nguyễn Du đã để Thúy Kiều khước từ tình cảm ái ân của Kim Trọng trong đêm thề nguyện tình yêu – đó cũng là minh chứng cho thấy sự chủ động của nàng. - Kiều của Nguyễn Du đã vượt thoát khỏi khuôn mẫu chung này, nàng thực sự là một phụ nữ hiện đại có sự thức tỉnh ý thức cá nhân, khát vọng bản thể, mạnh mẽ khẳng định giá trị nhân vị và quyền sống của chính mình - Và có lẽ đây chính là điều căn bản nhất làm nên một Nguyễn Du với Truyện Kiều trường tồn vĩnh cửu với thời gian.
- • Kim Trọng: bất lực và không có cách nào để giúp nàng cũng như cứu vớt gia đình nàng. • Thúc Sinh: bạc nhược, sợ vợ đến đớn hèn nên không bảo vệ được người đàn bà mình yêu. • Từ Hải: phóng khoáng, mạnh mẽ, phi thường - người mang công lý đến cho Kiều - bị hãm hại chết đứng giữa trận tiền.
- • => Những người đàn ông đều bị hạ bệ. • Đối với những người đàn ông yêu thương Kiều thì một là bất lực để nàng ra đi. Hai là vì hèn nhát. Ba là vì công danh. • Đối với những nhân vật như Sở Khanh, Mã Giám sinh, tác giả hạ bệ đến mức tuyệt đối bởi họ đại diện cho một tầng lớp trong xã hội, mặt trái của xã hội đã đẩy biết bao nhiêu người phụ nữ vào cảnh đau thương, bất hạnh.
- SỰ ƯU TIÊN CỦA SỐ MỆNH VÀ TỰ NHIÊN LÊN TRÊN Ý CHÍ ẢNH HƯỞNG SỰ ƯU TIÊN CỦA BỘN PHẬN LÊN TRÊN CỦA KHÁT VỌNG CÁ NHÂN TÔN GIÁO SỰ ƯU TIÊN CỦA TRUYỀN THỐNG LÊN TRÊN HIỆN
- • Để cái huyền thoại về ngôi nhà nông thôn này đi đến hoàn thiện, nó phải bị phá hủy. Sự phá hủy này được hoàn thiện bởi lòng tham của một người đàn ông - Mã Giám Sinh. Một trong hai cách giải thích này đáp ứng những miêu tả của Nguyễn Du về chủ nghĩa vật chất kinh tế, điều ông có vẻ như đánh đồng với cái hiện đại.
- ĐẠO ĐỨC • Bài thơ bắt đầu với sự Nàng rằng: Chút phận hoa rơi, hiến dâng khát vọng cá Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. nhân khi Kiều yêu cầu Tính rằng mặt nước chân mây, Kim Trọng hoãn lại mối Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? quan hệ xác thịt để tôn Được rày tái thế tương phùng. trọng bổn phận đạo đức; Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! bài thơ cũng kết thúc với Đã đem mình bỏ am mây, sự kìm nén vĩnh viễn Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa. khát vọng tình dục như là Mùi thiền đã bén muối dưa, một sự tự trừng phạt cho Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. Sự đời đã tắt lửa lòng, những tủi hồ mà nàng Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! phải chịu.
- => Ở cuối tác phẩm, điều đưa Kiều trở về cuộc sống là định mệnh được hiện thân qua nhân vật Giác Duyên. Nếu Nguyễn Du nghi ngờ tính chất đời thương của phật giáo thì ông không thành công. Bởi vì, nhân vật chính của ông - thân thể, ngôn ngữ và niềm tin – đã khắc họa nguyên nhân của sự đoàn kết dân tộc.
- 2. Hệ thống biểu tượng: Biểu tượng trong Truyện Kiều là cơ sở giải mã hình tượng, cơ sở lí giải tính biểu trưng, tính hàm súc, tính giàu sức gợi: gợi hình ảnh, gợi cảm xúc, gợi tư tưởng bởi biểu tượng luôn chứa “những khả năng nảy sinh quan niệm”. Thống nhất và xuyên suốt tư tưởng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là sự băn khoăn, trăn trở đầy lo âu về vận mệnh của con người, là sự thể hiện quan niệm về cái đẹp và hành trình số phận cái đẹp được biểu hiện tập trung qua cuộc đời, số phận nhân vật Thúy Kiều. Tư tưởng ấy chi phối việc xây dựng các hình ảnh và cặp hình ảnh biểu tượng: Trời, vườn- tường, đêm, nước- hoa, châu ngọc- vàng đá, gió mưa, tuyết sương, bèo mây
- - Hình ảnh biểu tượng "Trăng" + Riêng truyện thơ Kiều xếp vào hàng cổ điển, kinh điển vang danh vào bậc nhất văn học nước nhà, trong đó trăng xuất hiện vài mươi lần; từ trăng được biểu cảm hóa đặc biệt. Có khi vầng trăng viên mãn sáng ấm được ví như mặt người con gái đoan trang hiền thục, phúc hậu. Đối sánh với vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của người chị Thúy Kiều, người em Thúy Vân được miêu tả ước lệ là “khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”. Có khi trăng gắn liền với một mùa thời gian trong năm. Nói về sự giao mùa từ xuân sang hè, thơ Kiều có câu “dưới trăng quyên đã gọi hè”. + Trăng trong truyện Kiều có thể gọi là vầng trăng biểu tượng, vầng trăng biểu cảm hàm chứa tâm trạng buồn vui trữ tình của nhân vật .
- - Hình ảnh biểu tượng kép "vàng đá- châu ngọc" + Nằm trong chuỗi biểu tượng gắn với cảm quan cuộc đời hư vô, phù du, vô thường, bất trắc, dễ thay đổi của tác giả, bên cạnh các biểu tượng “hoa”, “nước”, cặp biều tượng “châu ngọc- vàng đá” cũng là hiện thân mẫu mực của cái đẹp, cái đẹp hoàn hảo, hoàn mĩ. + “Châu ngọc- vàng đá” đi vào ngôn ngữ văn hóa trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp hoàn hảo, hoàn thiện, sự vĩnh cửu và bền vững những cũng là sự thử thách khắc nghiệt. + Nếu như “hoa” còn dùng để chỉ Kim Trọng “nàng rằng khoảng vắng đêm trường/ Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”, thì “châu ngọc” chỉ duy nhất được dùng để thay thế cho nàng Kiều. Bằng cách đó Nguyễn Du đã khẳng định Thúy Kiều là biểu tượng cho vẻ đẹp hoàn hảo, hoàn mĩ về cả hình thức lẫn nhân cách.
- - Hình ảnh biểu tượng "Trời" + “Trời” trong Truyện Kiều là một biểu tượng xuất hiện nhiều lần với biểu nghĩa thống nhất: trời sinh ra tất cả và quyết định vận mệnh của vạn vật. Nó trở thành điểm tựa để lí giải sự phi lí trong hành trình số phận và vận mệnh của cái đẹp. + Sự xuất hiện của biểu tượng “trời” thể hiện tư tưởng bi quan, yếm thế của Nguyễn Du, sự bất lực trước sự vận hành quay cuồng “mưa gió bão bùng” trong hành trình vận mệnh của cái đẹp, cái tốt. Dường như Nguyễn Du xem đó là sự lí giải thỏa đáng cho những đau khổ, bất hạnh của đời người.
- *Ngôn ngữ có tính chất ước lệ Trong lần Kim Trọng Tỏ tình với Thúy Kiều đã dùng một loạt từ ngữ đầy tính ước lệ, điển cố và ẩn dụ: Xương mai tính đã rủ mòn, Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay. Tháng tròn như gửi cung mây, Trần trần một phận ấp cây đã liều. Tiện đây xin một hai điều, Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng? Thuý Kiều đang đêm một mình đến nhà Kim Trọng tự tình cũng đã nói: “Nàng rằng: quãng vắng đêm trường, Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa” Và Vương bà khi nghe Kiều khóc, thức dậy ân cần hỏi con: “Cớ sao trằn trọc canh khuya,
- - Dùng từ Hán Việt làm tăng phần trang trọng, tạo một không khí cổ kính và sử dụng các hình thức ẩn dụ, hoán dụ: + Khuôn thiêng: chỉ trời + Lượng xuân, cỗi xuân: bố mẹ + Bóng tùng quân: người chồng + Thân cát đằng: phận lẽ mọn + Mảnh hồng nhan, hồng quân: người phụ nữ.
- *Ngôn ngữ có tính chất hiện thực chủ nghĩa Ngôn ngữ Thuý Kiều nhiều khi đạt đến mức độ sinh động của lời ăn tiếng nói hàng ngày trong đời sống: Nàng nằng: thôi thế thì thôi, Rằng không thì cũng vâng lời rằng không. Nhưng khi Sở Khanh định hành hung thì Thuý Kiều mắng lại: Đem người đẩy xuống giếng khơi, Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay. Còn tiên Tích Việt trên tay, Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai.
- Nhân vật Tú Bà thể hiện rõ nhất tính chất hiện thực chủ nghĩa: Này này! Sự đã quả nhiên, Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi. Bảo rằng đi dạo lấy người, Đem về rước khách kiếm lời mà ăn. Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân, Buồn tình trước đã tần mần thử chơi! Mầu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma! Con kia đã bán cho ta, Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây. Lão kia có giở bài bây, Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe. Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao! Phải làm cho biết phép tao.
- Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ có dụng ý chứ không dùng tùy tiện Nguyễn Du không thoát ly khỏi truyền thống, nhưng sáng tạo rất nhiều trên cơ sở truyền thống ấy